Phát minh vĩ đại đã giành giải thưởng Nobel về y học

Cơ chế lây truyền bệnh sốt rét của nhà khoa học Hồi giáo Ronald Ross bắt đầu nghiên cứu bệnh sốt rét ở Ấn Độ vào năm 1892. Ông đã tìm thấy ký sinh trùng sốt rét trong đường tiêu hóa của muỗi vào năm 1897, chứng minh rằng bệnh sốt rét do muỗi truyền đã đặt nền tảng cho cuộc chiến chống lại căn bệnh này. Sau năm năm nghiên cứu chuyên sâu, Ronald Ross đã phát hiện ra bản chất ký sinh của muỗi truyền bệnh sốt rét và giành giải thưởng Nobel về y học năm 1902.

Thuốc điều trị bệnh tiểu đường

Năm 1921, Frederick Grant Bilt và Charles Best đã chứng minh rằng một chất gọi là trypsin có thể Ngăn chặn việc sản xuất insulin trong tuyến tụy. Các nhà khoa học biết rằng thiếu insulin là nguyên nhân của bệnh tiểu đường, nhưng không có cách nào để ngăn chặn nó. Trong phòng thí nghiệm, Frederick và Charles đã chiết xuất thành công insulin từ chó để điều trị bệnh tiểu đường ở người.

Đầu năm 1922, ông Frederick Grant Bilt (Frederick Grant Bilt) và Charles Best (Charles Best) đã cho bé hôn mê 14 tuổi Leonard Thompson (Leonard Thompson). Tiêm insulin đã được thử nghiệm. Bệnh nhân đã hồi phục nhanh chóng, kéo dài cuộc sống thêm 13 năm. Frederick và Charles đã cấp quyền bằng sáng chế cho một ủy ban của Đại học Toronto mà không nhận được bất kỳ nguồn lực nào. Ngày nay, liệu pháp insulin đã được sử dụng rộng rãi để điều trị bệnh tiểu đường trên toàn thế giới.

Frederick Banting, 32 tuổi, trở thành người trẻ nhất nhận giải thưởng Nobel về y học năm 1923.

Phân loại máu

Vào giữa những năm 1900, truyền máu không được thực hiện do không tương thích giữa truyền máu và máu của người nhận. Năm 1901, Karl Landsteiner đã phát hiện ra ba nhóm máu A, B và O được phân loại theo kháng nguyên trên bề mặt tế bào hồng cầu, đánh dấu một cột mốc phi thường trong lịch sử y học. Khám phá nhóm máu của Karl giúp loại bỏ nguy cơ truyền máu. Bảy năm sau khi Karl được phát hiện, việc truyền máu đầu tiên đã được thực hiện thành công tại New York, Hoa Kỳ. Karl Landsteiner được mệnh danh là “cha đẻ của miễn dịch học” và giành giải thưởng Nobel về y học năm 1930. Ảnh: WhileCo – Luật giao hợp tình dục – Nhà sinh lý học và nhà di truyền học Thomas Hunt Morgan được coi là “cha đẻ của di truyền học hiện đại” và là nhà khoa học đầu tiên sử dụng ruồi giấm trong nghiên cứu. Sau khi nghiên cứu hàng ngàn con ruồi giấm, ông đã đưa ra khái niệm về gen và lập bản đồ phân bố gen trên nhiễm sắc thể.

Tên của Thomas Hunt Morgan gắn liền với người tiên phong về di truyền học Gregor Mendel (Gregor Mendel). – Năm 1933, Thomas Hunt Morgan đã giành giải thưởng Nobel về y học vì khám phá vai trò của nhiễm sắc thể trong di truyền học. Penicillin-Alexander Fleming đã từng đặt một đĩa nuôi cấy vi khuẩn trên bàn trong phòng bệnh, và vô tình phát hiện ra rằng có nấm mốc phát triển xung quanh nó, ngăn chặn sự phát triển của vi khuẩn. Thông qua khám phá này, anh đã phát hiện ra penicillin – một chất giết chết hoặc tiêu diệt sự phát triển của vi khuẩn trong các tế bào nấm mốc.

Vào giữa những năm 1940, Ernst Boris Chain (Ernst Boris Chain) và Howard Walter Florey (Howard Walter Florey) và các đồng nghiệp đã sản xuất thành công penicillin tinh khiết. Nó là loại kháng sinh đầu tiên được con người sử dụng và hiện được sử dụng rộng rãi trong y học hiện đại.

Alexander Fleming, Ernst Boris Chain và Howard Walter Florey đã cùng nhau giành giải thưởng Nobel về y học năm 1945. – Thụ tinh trong ống nghiệm – Patrick Steptoe và Robert G. Edwards đã tìm ra giải pháp cho các cặp vợ chồng vô sinh và hiếm muộn muốn có con. Robert Edward (Robert Edward) đã đề xuất thụ tinh trong ống nghiệm (IVF), sử dụng tinh trùng trong ống nghiệm để thụ tinh cho trứng và cấy phôi kết quả vào tử cung của người mẹ. Luật về em bé ống nghiệm sau đó đã bị công chúng phản đối mạnh mẽ, tin rằng nó đã vi phạm các tiêu chuẩn đạo đức xã hội. – 11: 47 p.m. Vào ngày 25 tháng 7 năm 1978, khi Louis Brown được sinh ra ở Bệnh viện Oldham thông qua thụ tinh nhân tạo, một em bé ống nghiệm mới Phương pháp chính thức đặt một cột mốc cho sự thành công. Xác suất thụ thai thành công bằng công nghệ IVF là 20%, tương đương với xác suất thụ thai tự nhiên.

Năm 2010, Patrick Steptoe và Robert Edwards đã được trao giải thưởng Nobel về y học. Edwards (trái) và Patrick Steptoe. Ảnh: Học giả ngữ nghĩa – Liệu pháp miễn dịch trong điều trị ung thư – James P. Allison nhận ra rằng việc giải phóng các tế bào miễn dịch có thể kích thích khả năng tấn công khối u. Do đó, các nhà nghiên cứu đã phát triển một chất ức chế miễn dịch Vai trò của protein. Ông đã phát triển ý tưởng này thành một phương pháp điều trị mớiBệnh nhân ung thư.

Nhà khoa học Tasuku Honjo cũng phát hiện ra một loại protein trong các tế bào miễn dịch hoạt động như một chất ức chế nhưng có cơ chế hoạt động khác nhau. Liệu pháp dựa trên khám phá của nó rất hiệu quả trong việc chống ung thư.

Công trình của hai nhà khoa học đã giành giải thưởng Nobel năm 2018. Liệu pháp miễn dịch mang lại hy vọng cho những đứa trẻ giết chết hàng triệu người mỗi năm do ung thư. Hằng (xem lại theo gương)

Leave a Reply

Your email address will not be published.