Vào ngày 21 tháng 2, Bộ Y tế đã cho phép Bệnh viện Đa khoa Hà An lần đầu tiên nghiên cứu ứng dụng huyết tương giàu tiểu cầu (PRP) trong điều trị vô sinh. Trong trường hợp nội mạc tử cung mỏng (dưới 7 mm), nội mạc tử cung thất bại và nhiều lần chuyển phôi không thành công. Phương pháp này mang lại hy vọng mới cho hàng ngàn phụ nữ bị suy nội mạc tử cung lớp mỏng, những người đã trải qua nhiều lần chuyển phôi hoặc sảy thai nhiều lần. Thụ tinh trong ống nghiệm (IVF). Việc áp dụng huyết tương giàu tiểu cầu tự thân giúp tăng độ dày của nội mạc tử cung và đáp ứng tốt với quá trình chuyển phôi. Giáo sư Lê Hoàng (IVF Tân An), Giám đốc Trung tâm hỗ trợ sinh sản của Bệnh viện Đa khoa Hà Nội Tân An, cho biết:
Trên toàn cầu, tỷ lệ thành công của thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) là khoảng 40-45%. Tại Việt Nam, theo dữ liệu do IVF Tâm Anh công bố, tỷ lệ dao động trong khoảng 35-60%. Tỷ lệ IVF thành công đối với phụ nữ có nội mạc tử cung mỏng và suy nội mạc tử cung sẽ giảm 2-10%.

Nội mạc tử cung mỏng, nội mạc tử cung bất thường hoặc không đáp ứng, điều trị không đúng cách là lý do chính cho thụ tinh trong ống nghiệm mà không thụ thai. Căn bệnh này khiến hàng ngàn phụ nữ chưa có mẹ hoặc sảy thai.
Nhiều quốc gia trên thế giới đã nghiên cứu và áp dụng các phương pháp bơm huyết tương giàu tiểu cầu vào tử cung kết hợp với các phương pháp điều trị của riêng họ. Trong một bài báo đăng trên Thư viện Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ, năm 2017, Tiến sĩ Zadehmodarres từ Iran và các đồng nghiệp đã tuyển dụng 10 người Iran kiên nhẫn. Lịch sử phát triển nội mạc tử cung không hoàn chỉnh (DCTC) trong chu kỳ chuyển phôi đông lạnh. Người phụ nữ đã nhận được hai lần tiêm truyền PRP 0,5 ml và sau đó tiến hành chuyển phôi. Do đó, tất cả bệnh nhân dùng PRP đều tăng độ dày của DCTC, trong đó có 5 phụ nữ mang thai, tương đương với 50% bệnh nhân.
Các bác sĩ tại Bệnh viện Đa khoa Hà Nội Tâm An hỗ trợ sinh sản và chuyển phôi cho bệnh nhân MSV.
Bản thân huyết tương giàu tiểu cầu được thu thập thông qua quy trình lấy máu của bệnh nhân và thiết bị đặc biệt được sử dụng để xử lý mẫu máu, do đó có lượng tiểu cầu trong huyết tương gấp 2 đến 10 lần so với huyết tương bình thường. Huyết tương chứa nhiều yếu tố tăng trưởng và cytokine (một nhóm protein trong cơ thể chịu trách nhiệm điều chỉnh phản ứng của hệ miễn dịch và tác dụng chống viêm trên cơ thể con người). Đây là loại vi khuẩn tương thích nhất với cơ thể bệnh nhân và tránh thải ghép. Nó đã được chứng minh là hiệu quả và an toàn trong ngành hỗ trợ sinh sản ở Ý, Iran, Trung Quốc và nhiều quốc gia / khu vực khác. , Ấn Độ, Venezuela …
Theo sự chấp thuận của Bộ Y tế, đại diện Bệnh viện Đa khoa Tan Hóaan cho biết, các cơ sở của bệnh viện này phải đáp ứng các tiêu chuẩn nghiêm ngặt. Vật liệu hiện đại, quy trình, hệ thống quản lý chất lượng nghiêm ngặt và đội ngũ chuyên gia giàu kinh nghiệm. Nhờ sự hợp tác chặt chẽ giữa Trung tâm hỗ trợ sinh sản (IVFTA) và Trung tâm gốc của Bệnh viện đa khoa Tam Anh, các bác sĩ được tự chủ trong toàn bộ quá trình nghiên cứu ứng dụng. Phương pháp này cũng rất tiện lợi, tiết kiệm thời gian và tiền bạc cho bệnh nhân. Do đó, quá trình xử lý máu thu thập huyết tương giàu tiểu cầu được thực hiện tại trung tâm tế bào gốc. Do đó, men vi sinh PRP có chất lượng cao, an toàn khi sử dụng và có thể đảm bảo tuân thủ các tiêu chuẩn nghiêm ngặt của chính huyết tương giàu tiểu cầu. Việc điều trị được thực hiện trực tiếp tại Trung tâm Tế bào gốc của Bệnh viện Đa khoa Tam An ở Hà Nội – “Ở Tamu IVF, nhiều bệnh nhân gặp phải tình huống khó khăn, tình huống phức tạp và người dân. Người cao tuổi bị AMH thấp liên tục thất bại ở các trung tâm khác, trong số đó, nội mạc tử cung thay đổi. Lý do cho độ mỏng chiếm khoảng 20-30%. Phương pháp tiêm huyết tương giàu huyết tương của chính nó vào tử cung kích thích hoạt động của lớp tế bào. Thành công của bệnh nhân được dự đoán là 50%. HoàngIVF Tam Anh cũng áp dụng thử nghiệm ERA (nội mạc tử cung Kiểm tra mảng Receptivity), thử nghiệm này là một thử nghiệm nâng cao được sử dụng để đánh giá khả năng của các tế bào nội mô chết.Bằng cách đánh giá sự biểu hiện của hàng trăm gen nội mạc tử cung. Đây là một công nghệ được sử dụng để xác định và dự đoán thời gian thích hợp để nội mạc tử cung nhận phôi, từ đó cá nhân hóa thời gian chuyển phôi. Thông qua xét nghiệm ERA, các bác sĩ có thể xác định thời gian chuyển phôi phù hợp cho từng trường hợp bệnh nhân mà không phải xác định thời gian dựa trên những phỏng đoán trước đó.
Đây cũng là đơn vị đầu tiên tại Việt Nam sử dụng phôi nhân tạo có bản quyền thực sự trong tủ nuôi cấy phôi. Giúp thúc đẩy phát triển phôi tốt hơn, cải thiện chất lượng phôi và theo dõi, đánh giá và lựa chọn phôi chất lượng cao để chuyển cho trẻ sơ sinh mắc bệnh IVF, được sinh ra thông qua thụ tinh trong ống nghiệm tại Bệnh viện Đa khoa Tân An.
IVFTA công bố vào năm 2019 với tư cách là người lãnh đạo trong IVF. Tỷ lệ thành công quốc gia trung bình cao tới 60,9% và nhiều trường hợp trong số này là phụ nữ cao tuổi, nam giới không có tinh trùng và bệnh nhân mắc bệnh đi kèm. Đặc biệt đối với bệnh nhân trên 35 tuổi, tỷ lệ IVF thành IVFTA thành công có thể đạt 61,8% và đối với bệnh nhân dưới 30 tuổi có thể đạt tới 70%.
Hiện tại, trung tâm cung cấp hỗ trợ chính sách cho bệnh nhân vô sinh. Không có chi phí trả góp vô sinh, và sẽ không tính lãi trong sáu tháng.
Dương Thành
Vào lúc 8 giờ tối ngày 26 tháng 2 năm 2020, Bệnh viện Đa khoa Hà Nội tổ chức một chương trình trao đổi trực tuyến “Công nghệ giúp tăng tỷ lệ thành công” thụ tinh trong ống nghiệm “, một chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản, tế bào gốc Các chuyên gia: TTND.PGS.TS.BS Lê Hoàng – Giám đốc Trung tâm hỗ trợ sinh sản; Bác sĩ Tham Thu Nga – Giám đốc Trung tâm tế bào gốc LAB, Tiến sĩ Phan Ngọc Quý – Bác sĩ của Trung tâm hỗ trợ sinh sản, Tiến sĩ Lưu Xuân Kỳ – Bác sĩ phôi của Trung tâm hỗ trợ sinh sản và Hà Nội Đồng nghiệp của IVF Tâm Anh.
Để được gợi ý về kế hoạch, độc giả có thể gửi câu hỏi tại đây.
Leave a Reply